Đặc san báo Đuốc Thiêng - Chủ bút Mục sư Nguyễn Văn Bình

Một vài loài cây có độc tính - Dr Trương Hoàng Lâm

Đuốc Thiêng 103, tháng 11 năm 2010


1. Mở đầu

Vào năm 1500 TC theo tài liệu y khoa của Ai cập cây nghệ (Đức: Safran, Pháp: safran, La tinh: Crocus sativus) được xem như cây có độc tính. Sokrates (470-399) bị người dân Athen kết án xử tử bằng cách phải uống một cốc có chứa chất độc lấy từ cây "cần độc" (Schierling, cigué, Conium maculatum).

Hiện nay người ta biết trên nửa triệu loài cây. Mỗi mười cây có chất độc. Nhưng khoảng 1.000 cây được nghiên cứu kỷ càng về sự cấu tạo của các chất. Tại Âu Châu khoảng 50 họ cây có chất độc. Cây có chất độc được phân loại như sau: độc rất mạnh (+++, liều lượng bằng mg có thể đe dọa tánh mạng), độc mạnh (++, hiện tương độc mạnh) và độc (+). Các chất độc gồm có: Alkaloide, Triterpen-Glykoside, zyanogene Glykoside và các chất khác. Các cây có chất độc chứa nhiều các chất độc nầy.

Trong liều lượng đúng tiêu chuẩn một vài chất độc nầy có thể được sử dụng như thuốc trị bịnh. Dosis sola fecit venenum= liều lượng tạo thành chất độc (Paracelsus 1493-1541). Paracelsus đã nhìn thấy ý nghiã trong tất cả mọi vật của Đấng sáng tạo. Đức Chuá Trời đã tạo ra cây không phải để đáp ứng trực tiếp mục đích của con người, nhưng con người phải tự tìm kiếm sự lợi ích của nó. Paracelsus muốn nêu lên sự liên quan với cây có độc tính. Nhiều cây có độc tính cũng thuộc về cây trị bệnh. Nhiệm vụ của một thầy thuốc là tìm sự lợi ích của nó. Nhiều loài cây có chất độc rất nguy hiểm nhưng với liều lượng ít thì không gây nguy hại cho con người. Ngược lại nhiều loài và và nồng độ chất độc có thể gây nguy hại.

2. Tại sao một cây có độc tính?

Con người thường có chiều hướng giải nghiã các hiện tượng thiên nhiên theo ý riêng của mình.

Một loài cây được gọi là độc chỉ qua tác dụng đối với cơ thể con người, không liên quan đến một con chim hay con dơi đã ăn cây hay trái của cây đó.

Tại sao cây có độc tính? Tại sao cây tích trử các chất độc trong mô để gây nguy hại cho con người và các loài thú?

Giả thuyết đầu tiên là cây nhờ chất độc để chống lại các loài thú ăn hại, phá rối cây. Nhưng theo quá trình tiến hoá (Evolution) hiện tượng nầy không phát tiển mạnh mẽ theo thời gian, vậy giả thuyết có giá trị giới hạn eo hẹp.

Giả thuyết thứ hai là cây chứa chất độc để chống vi trùng và vi khuẩn trong quá trình phát triển của mình.

Giả thuyết thứ ba là cây chứa độc tính như chất phế thải. Nhiều họ có nhiều loại chất độc khác nhau cũng như hình thể của các loại hoa. Nếu đó là chất phế thải thì theo thời gian phải tích tụ nhiều hơn lên nhưng ngược lại nồng độ chất độc thay đổi từ bộ phận nầy sang bộ phận khác và thay đổi tùy theo mùa. Vậy giả thuyết thứ ba vô căn cứ.

3. Ý nghiã của một cây có độc tính


Do nhiều nghiên cứu trong một thời gian dài người ta biết cấu tạo của các loại độc tính và các nhà y khoa có thể chế tạo được các thuốc trị bịnh cũng như các thuốc ngừa trong trường hợp trúng các chất độc của cây.

Ngày hôm nay theo thống kê của các trung tâm ngừa những trường hợp bị trúng độc những loài cây được coi là nguy hiểm đã được nhiều ngườI biết ngoạI trừ các trẻ em.

4. Một vài loài cây có độc tính


Cây thông đỏ (Eibe, if, Taxus baccata) được ưa chuộng vì nó có nghiã là sự lâu bền nhưng tượng trưng cái chết ở nghiã địa. Canada có Taxus canadensis, Bắc Mỹ có Taxus brevifolia, Nhựt, Taxus cuspidata, Na-uy, Anh, Bắc Phi, Bắc Âu, Kaukasus có Taxus baccata. Đây là loài thông nhưng không có trái như trái thông. Ở nghiã địa, theo nhiều tôn giáo cổ xưa nó tượng trưng cho cửa ngỏ vào thế giới bên kia. Gỗ của thông đỏ rất chắc, bền,có thể uốn cong nhưng không gẫy, người ta dùng gỗ thông đỏ làm cung, chi trong một trận chiến năm 1415 người Anh dùng cung chế tạo bằng thông đỏ để bắn tên đã giết chết 25.000 người lính Pháp. Tại vườn Versailles vua Louis 14 trồng thông đỏ làm cảnh tượng trưng cho sự bất tử, cuộc sống.

Thông đỏ cao từ 10-15 m, hột thông màu đen, bao lại bằng một bọc màu đỏ. Tất cả những phần của cây kể cả lá và trái đều có độc tính do chất Taxine. Sau khi ăn vào thì một tiếng đồng hồ sau bị tiêu chảy, chóng mặt, sau 2 tiếng đồng hồ thì bị bất tỉnh và chết vì tuần hoàn và hơi thở bị tê liệt.

Vỏ, lá của cây thông đỏ có chất Taxol trị ung thư.

Dây thường xuân (Efeu, lierre, Hedera helix): trong thành phố nhà cửa cất liền nhau, đất trống rất khan hiếm, vườn tược khó mở rộng. Muốn tăng diện tích màu xanh thì biện pháp đơn giản là phủ xanh theo chiều đứng, cây phủ xanh rất thích hợp theo chiều đứng là dây thường xuân, đây là loài cây thân leo, thường xanh quanh năm. Thân cây bám vào tường, mọc rất nhanh, lá rậm rạp, không cho cỏ mọc lên được có tác dụng bảo vệ môi trường. Mùa hè nước trong cây bốc hơi qua lá, hấp thụ nhiệt lượng trong không khí, làm giảm nhiệt độ môi trường, giảm bớt "hiệu ứng nhà kiến" của thành phố. Mặt tường phủ đầy cây lá che ánh mặt trời, làm giảm nhiệt độ trong phòng; ngoài ra còn hấp thụ tiếng ồn do xe cộ gây ra, bụi bặm thành phố. Thành phố lớn là nơi tiêu thụ dưởng khí với khối lượng lớn, tăng diện tích cây xanh là phương pháp quan trọng để tăng nồng độ dưởng khí trong không khí, về khía cạnh nầy dây thường xuân giữ một vai trò chủ yếu.

Dây thường xuân thường ưa leo bám và leo vào cây như cây sồi (Eiche, chêne), cây phong (Birke, bouleau) và làm cho các cây nầy bị chết. Chuyện nầy không đúng. Nguyên do làm chết cây lớn như sồi, phong không phải do dây thường xuân nhưng do điều kiện của đất đai.

Toàn phần của cây có chứa Triterpen-saponine làm cho da ngứa, phỏng ở miệng và ói mửa.

Cây hương mộc (Holunder, sureau, Sambucus nigra). Thời Trung cổ nông dân Đức thường trồng gần nhà vì tin tưởng trong cây có một ông thần che chở nhà cửa chống bảo tố. Tất cả phần của cây như vỏ, lá bông đều được sử dụng: bông và lá làm trà uống chống cảm, trái trị táo bón, nhứt đầu, vỏ và rễ chống đau nhứt. Trái không được ăn sống vì gây ói mửa.

Cây mao địa hoàng (Fingerhut, digitale pourprée, Digitalis purpurea), cao 40-100 cm, cây thẳng đứng, không lông, lá dưới gốc mọc vòng tròn, lá phía trên mọc đối, hoa mọc thành dãy thẳng trên một cuốn dài, hoa hình chuông màu tía hoặc vàng, thường mọc rủ xuống quanh cuống chung. Hoa chứa nhiều Glykoside và Saponine gây ói mửa. Hoa có chất digitale được bào chế thành thuốc trợ tim.

Bông hồng Giáng sinh (Christrose, rose de Noel, Holleborus niger), cao 15-30 cm, lá chia ra như ngón tay, hoa màu trắng. Toàn bộ cây đều có chất độc như Protoanemonin, Steroidsaponine gây ói mửa.

Cây tầm ma (Brennessel, ortie, Urtica dioica) cao 50-150 cm cây có lông gây ngứa, lá mọc đối, dài và nhọn, hình răng cưa. Lá không độc, lông có chất Histamin, Cholin và Serotonin gây ngứa.

Cây thầu dầu (Rizinus, ricin, Ricinus communis), cây cao đến 3 m, màu đỏ, lá mọc đơn đối chiếu, lá như hình bàn tay. Hột có chất Ricin rất độc có thể gây chết do tê liệt tuần hoàn, nhưng nếu dùng đúng liều lượng thì có thể chửa bệnh táo bón và bệnh ký sinh trùng đường ruột. Dầu thầu dầu là nguyên liệu công nghiệp có thể chế thành chất bôi trơn, dầu in, nhựa.

Cây mùi tây (Petersilien, persil, Petroselinum crispum) được dùng làm gia vị nhưng ăn nhiều hột của nó gây phá thai, cho nên tại thành phố Göttingen (Đức) có 1 con đường tên Petrosilien-Strasse, lúc thời xa xưa là nơi dành cho các cô gái điếm hành nghề, thỉnh thoảng sử dụng hột cây mùi tây để phá thai vì vào thời xa xưa đó chưa có thuốc ngừa thai.

Cây huệ chuông (Maiglöckchen, muguet, Convallaria majalis), thân mảnh mai, hoa trắng ngà rất thơm, hình chuông nhỏ. Rất độc do chất Cardenoid-Glykoside, gây ói mửa, tiêu chảy.

Cây kỳ nham (Bilsenkraut, jusqiaunse noire, Hyescyamus niger), cao 20-80 cm, cây có lông, lá mọc đơn, đối chiếu. Lá phiá trên mọc sát vào thân. Lúc xưa người ta dùng kỳ nham pha vào rượu bia để gây cảm giác say sưa. Cây rất độc vì Tropan-Alkaloide, có thể gây chết.

Cây trúc đào (Oleander, laurier-rose, Nerium oleander), lá trúc đào xanh biếc, như liểu, như trúc; đầu cành mọc đầy hoa đỏ giống như hoa đào vì thế gọi là "trúc đào". Trúc đào là loài cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, cao 5-6 m, hoa màu đỏ còn có màu trắng sửa, vàng, đỏ thẳm, đỏ trắng lẩn lộn.

Lá, hoa,vỏ trúc đào đều độc, tác dụng như mao địa hoàng do chất Glykoside và Oleandrin, hột và lá có nồng độ tập trung nhiều nhứt. Triệu chứng trúng độc là lưởi cứng, ói mửa, tiêu chảy và tim ngừng đập. Lúc thời Napoleon đi đánh giặc, lúc nghỉ dọc đường thì nhân viên nhà bếp nấu súp cho lính ăn, chặt các cây trúc đào ở lề đường để quậy cho súp tan đều, do chất độc của trúc đào  lính ăn xong chết rất nhiều, nhiều hơn là lúc ra trận!

Cây đổ quyên (Rhododendron, rhododendron, Rhododendron ferrugineum), cây cao 30-150 cm, mùa đông vẩn xanh, lá dài đến 15 cm, bìa cuốn tròn, lá phiá trên xanh đậm, phiá dưới đỏ sét. Rất độc đối với thú ăn ngoài đồng. Ói mửa, tim đập không đều.

Hoa thủy tiên (Osterglocken, narcisse, Narcissus pseudonarcissus), chất độc do Amaryllidaceen-Alkaloide làm cho buồn nôn, mửa nếu ăn củ của nó.

Cây đại hoàng (Rhabarber, rhubarbe, Rheum palmatum) là cây nguy hiểm nhất trong vườn rau. Có thể ăn những bẹ lá dài màu đỏ đã được nấu hoặc làm mứt. Những phần có màu xanh của cây nầy rất là nguy hiểm. Ăn một số lượng lá nầy có thể chết.

Khoai tây (Kartoffel, pomme de terre), củ có thể ăn được, phần còn lại như lá, cành chứa một chất độc chết người. Khi lột vỏ khoai tây, phải cắt hềt những phần màu xanh và cắt bỏ những mầm mọc quanh củ khoai. Những phần màu xanh nầy rầt nguy hiểm, mặc dầu có nấu cũng không phá hủy được độc chất trong phần màu xanh của củ khoai tây.

Cà chua là thực phẩm ngon bổ nhưng lá và dây cà chua có chứa chất độc có hại nếu ăn vào.

5. Một vài nguyên tắc thông thường


1. Nên biết cây nào trong vườn hay trong nhà là loại cây có chất độc
2. Đừng nhai hay ăn những lá, hoa, cành nhánh của những cây lạ chưa bao giờ biết, ngay cả những trái mà chim hay thú trong rừng thường ăn
3. Đừng ăn củ, rễ cây lạ nhứt là củ giống như củ hành
4. Đừng ăn hay đừng đụng những cây có tiết ra chất nước có màu hoặc giống như sửa
5. Đừng đốt những cành hay củi chặt từ những cây lạ. Đừng dùng cành nhánh những cây lạ để ghim nướng thịt, xúc xích
6. Cất kỷ các loại củ hay hột vào nơi mà trẻ em không lấy được

Mặc dầu biết nguy hiểm nhưng sự rủi ro vẩn co thể xảy ra. Trong trường hợp cấp cứu gọi bệnh viện hoặc Trung Tâm chất độc (Giftinformations-Zentrum) thành phố nào cũng có hoặc hỏi Ty Cảnh sát để biết tin tức. Khi vào bệnh viện nhớ mang theo những phần của cây còn lại mà nạn nhân chưa ăn để nhân viên có thể biết nhanh chóng chất độc.

6. Kết luận

Vạn vật được tăng vẻ đẹp do màu sắc của nhiều bông hoa. Nhiều loại hoa như hoa hồng lúc đầu rất đẹp nhưng sau đó dần dần tàn héo. Nhiều loài hoa màu sắc tươi thắm nhưng trong đó có tiềm ẩn chất độc hại người như các tiên tri giả, những kẻ mang lốt chiên đến với chúng ta nhưng bề trong thật là muông sói (Ma-Thi-ơ 7:15).

7.Tài liệu tham khảo


1. Hammerschmied- Gollwitzer: Wörterbuch der medizinischen Fach-Fachausdrücke. Goldmann Verlag, 1998.
2. Wolfgang Hensel: Welche Giftpflanzen istdas?. Kosmosnaturführer, Stuttgart, 2006.
3. Hoàng Kiến Dân, Trương Phong: Chuyện hay thực vật. NXB Trẻ, 2000.
4. Hồ Phùng: Một số cỏ cây hoa lá có độc tính.  www.advite.com/motsococayhoalacodoctinh.htm.
5. Karl Heinz Reger: Hildegard Medizin. Orbis Verlag, 1998
6. Franz-Xaver Reichl: Taschenatlas der Toxikologie. Nikol Verlag, 2008.


Đuốc Thiêng 103

01 Tâm trí con người; - ĐTPÂ
02 Thơ: Xin Chúa sai con đi - Đức Huy
03 Người được Chúa sai đi - Mục sư Nguyễn Văn Bình
04 Người đàn bà ở Thêcôa - Bà Mục sư Nguyễn Văn Bình
05 Tiểu sử Thánh ca: "Giê-xu Đấng hằng yêu thương tôi" - Fanyia
06 Thơ: Yêu Chúa - Trần Nguyên Lam Bửu
07 Tìm hiểu cuộc cải chánh của Martin Luther - Diệp Dung
08 Điều rất cần cho chúng ta - Mục sư Trần Hữu Thành
09 Giêrusalem, 4000 năm lịch sử - Lạc Hồ
10 Một vài loài cây có độc tính - Dr Trương Hoàng Lâm
11 Vật đổi sao dời - Bà Lê Văn Bắc
12 Xứ Do Thái trước khi Chúa Jêsus khởi sự cộng tác - Mai Đào
13 Tin Tức - Vinh Bằng